1. Lịch sử của Gừng:
Gừng (danh pháp hai phần: Zingiber officinale) là một loài thực vật hay được dùng làm gia vị, thuốc. Nó được William Roscoe đặt danh pháp chính thức năm 1807, mặc dù nó đã được các tác giả khác đặt cho một loạt các danh pháp khác từ trước đó, chẳng hạn như từ trước năm 1753 khi Carl Linnaeus đưa phân loại học thành một khoa học – như Zingiber majus công bố năm 1747 của Georg Eberhard Rumphius (1627-1702),hay Amomum zingiber của chính Carl Linnaeus năm 1753.
Nguồn gốc tiếng Anh của từ “gừng” là từ giữa thế kỷ 14, từ gingifer tiếng Anh cổ , lần lượt bắt nguồn từ gingiber Latin thời Trung Cổ , gingiber từ tiếng Hy Lạp zingiberis , zingiberis từ singabera Prakrit (Middle Indic) và singabera từ srngaveram trong tiếng Phạn .
Ghi chép cổ nhất còn lưu giữ được có trong Luận ngữ (論語) do các môn đồ của Khổng Tử (551-479 TCN) viết tại Trung Quốc thời kỳ cuối Xuân Thu (~771–476 TCN) trở đi. Trong đó, tại phần 10 Hương đảng (鄉黨, xóm làng), Khổng Tử viết: 不撤薑食, 不多食 (bất triệt khương thực, bất đa thực – chẳng bỏ ăn gừng, chẳng ăn nhiều). Năm 406, sư Pháp Hiển viết rằng gừng được trồng trong chậu và đem theo trên các tàu thuyền Trung Hoa để ngăn ngừa bệnh scorbut. Trong thời Tống (960–1279), gừng được nhập khẩu vào Trung Quốc từ các nước phương nam.
Gừng được người Ả Rập đưa vào khu vực Địa Trung Hải, và được các tác giả như Pedanius Dioscorides (40–90) hay Pliny Già (24–79) mô tả.[9] Năm 150, Ptolemy ghi chép rằng gừng được sản xuất tại Ceylon (Sri Lanka). Được người Hy Lạp và La Mã mua từ các thương nhân Ả Rập, nó là một trong những loại gia vị phương Đông đầu tiên đến với châu Âu. Các loại gia vị khác trong họ Gừng (Zingiberaceae) bao gồm bạch đậu khấu (Elettaria cardamomum) và nghệ (Curcuma longa).
Gừng tươi cũng như gừng đã bảo quản được nhập khẩu vào châu Âu trong thời kỳ Trung Cổ. Tại Anh thế kỷ 14 thì 1 pound (0,453 kg) gừng có giá ngang với giá một con cừu.
2. Phân bố của gừng
Gừng hiện được trồng hay du nhập vào các khu vực sau đây: Australia (Queensland), Ấn Độ (gồm cả Assam, quần đảo Andaman và Nicobar), Bangladesh, Bhutan, Campuchia, Costa Rica, Cuba, Cộng hòa Dominica, Đài Loan, các đảo trong vịnh Guinea, Haiti, Honduras, Indonesia (Kalimantan, quần đảo Sunda Nhỏ), quần đảo Leeward, Madagascar, Malaysia (bán đảo, Sarawak, Sabah), Mauritius, Mexico, Myanmar, Nepal, Philippines, Puerto Rico, Rodrigues, Réunion, Sri Lanka, Thái Lan, Trinidad và Tobago, Trung Quốc (trung nam, đông nam, đảo Hải Nam), Việt Nam, quần đảo Windward. cũng như được trồng ở một loạt các nước khác như Cameroon, Côte d’Ivoire, Ethiopia, Ghana, Hàn Quốc, Kenya, Mali, Nhật Bản, Nigeria, Peru, Tanzania, Uganda v.v…
Do là một loại cây trồng thực sự, nên nó có thể ở dạng cây trồng, cây mọc tự nhiên và cây du nhập đã tự nhiên hóa. Vì thế, nguồn gốc và sự phân bổ của quần thể tự nhiên là không rõ, dù có ý kiến cho rằng nó có thể có nguồn gốc từ Ấn Độ, Đông Himalaya hay tây nam Trung Quốc.
Gừng có lẽ có nguồn gốc là một phần của hệ thực vật mặt đất của các khu rừng nhiệt đới vùng đất thấp, nơi người ta vẫn có thể tìm thấy nhiều loài họ hàng hoang dã của nó. Trong trồng trọt, nó yêu cầu điều kiện nóng ẩm, râm mát và phát triển tốt nhất trong đất mùn màu mỡ, vì nó cần một lượng lớn chất dinh dưỡng.
3. Phân loại gừng
Họ Gừng, là một họ của thảo mộc sống lâu năm với các thân rễ bò ngang hay tạo củ, bao gồm 47-56 chi và khoảng 1.075-1.600 loài. Nhiều loài là các loại cây cảnh, cây gia vị, hay cây thuốc quan trọng. Các thành viên quan trọng nhất của họ này bao gồm gừng, nghệ, riềng, đậu khấu và sa nhân.
Phân loại khoa học
Giới (regnum): Plantae
(không phân hạng) : Angiospermae
(không phân hạng) : Monocots
(không phân hạng): Commelinids
Bộ (ordo): Zingiberales
Họ (familia) : Zingiberaceae
Phân họ (subfamilia): Zingiberoideae
Tông (tribus): Zingibereae
Chi (genus): Zingiber
Loài (species): Z. officinale
Danh pháp hai phần:
Zingiber officinale
Roscoe, 1807
4. Hình hái của Gừng
Thân rễ (quen gọi là củ) mập, mọng thịt, phân nhiều nhánh, đôi khi trông giống như bàn tay bị sưng phồng. Thân rễ có lớp vỏ ngoài như bần, màu nâu (thường được loại bỏ trước khi sử dụng) và phần ruột màu vàng nhạt với mùi thơm nồng giống mùi chanh và cay.
Chồi lá (thân giả) cao 0,5-1,25 m, mọc hàng năm từ các chồi trên thân rễ. Các thân giả này được hình thành từ một loạt các gốc lá (bẹ) quấn chặt vào nhau; lưỡi bẹ hơi 2 thùy, dài 2–10 mm, dạng màng; lá không cuống hoặc có cuống rất ngắn; phiến lá hình mác hay thẳng-hình mác, 15–30 cm × 2-2,5 cm, đỉnh thon nhỏ dần-nhọn thon, đáy hẹp hay nhọn, màu xanh lục, sắp xếp so le, khi non có hoặc không lông sau nhẵn nhụi.
Cụm hoa mọc từ thân rễ; cuống cụm hoa 15–30 cm. Cành hoa bông thóc hình trứng-hình elipxoit tù hoặc hình trụ, 4-8 × 1,5–3 cm; các lá bắc hình trứng, 2-2,5 cm, màu xanh lục nhạt đôi khi màu ánh vàng ở mép, các lá bắc trên màu xanh lục hoặc vàng nhạt, đỉnh có mấu nhọn; lá bắc con dài 2-2,5 cm, hình ống, màu ánh xanh lục.
Đài hoa dài 1-2,5 cm, như thủy tinh. Tràng hoa màu xanh lục ánh vàng hoặc trắng hay vàng; ống tràng dài 2-2,5 cm; các thùy tràng hình mác nhọn, dài ~1,8 cm, màu vàng; các thùy bên 3 gân; thùy lưng 9 gân, rộng hơn. Cánh môi thuôn dài-hình trứng ngược, ngắn hơn thùy tràng hoa, 3 thùy ngắn; thùy giữa thuôn dài, mép cuộn trong, màu từ tía tới tía sẫm với đốm vàng, gần đáy có sọc, họng màu vàng đốm tía; các thùy bên ngắn, hình trứng, tù, dài 6 mm, thẳng đứng, màu tía đốm vàng. Nhị màu tía sẫm, dài bằng cánh môi. Bao phấn dài ~9 mm, màu trắng; phần phụ liên kết cong, dài ~7 mm, màu tía sẫm. Tuyến mật thuôn dài. Các cụm hoa hiếm khi xuất hiện ở các cây được trồng. Ra hoa tháng 10. 2n = 22.
5. Thành phần hoá học
Hơn 400 hợp chất khác nhau đã được xác định trong gừng. Các thành phần chính trong thân rễ gừng là carbohydrate (50% đến 70%), hiện diện dưới dạng tinh bột. Nồng độ của lipid là 3% đến 8% : palmitic, oleic, linoleic, linolenic, capric, lauric, myristic,..
Dầu dễ bay hơi có ở nồng độ 1% đến 3% và chủ yếu bao gồm sesquiterpenes beta-bisabolene và zingiberene; các sesquiterpenes khác bao gồm zingiberol và zingiberenol. Nhiều monoterpen cũng có mặt. Các axit amin, chất xơ thô, tro, protein, phytosterol, vitamin (ví dụ: axit nicotinic, vitamin A) và khoáng chất nằm trong số các thành phần khác
Các thành phần beta-sesquiphellandren và (-) – zingiberen cao nhất trong gừng tươi, bị phân hủy khi sấy và lưu trữ. Điều này lý giải vì sao y học cổ truyền Trung Quốc ưu tiên dùng thân rễ tươi trong điều trị cảm lạnh thông thường. Các gingerol dần dần phân hủy thành shogaol.
6. Trong y học
6.1 Vị thuốc Theo y học cổ truyền
Trong củ gừng có các hoạt chất: Tinh dầu zingiberen, chất nhựa, chất cay, tinh bột. Tên thuốc Bắc: khương, chữ Hán: 薑, tên khoa học: Zingiber officinale, họ Zingiberaceae, có vị cay, tính ấm, quy vào các kinh phế (phổi), tỳ (lá lách), vị (dạ dày), có tác dụng tán hàn, phát biểu, long đờm, thường được dùng để chữa các chứng phong hàn và kích thích tiêu hóa. Trong Đông y, tùy theo cách bào chế mà gừng trở thành nhiều vị thuốc khác nhau. Thường dùng gồm: để sống dùng: sinh khương, phơi khô: can khương, đem lùi: ổi khương…Sinh khương
Sinh khương
Có chứa tinh dầu, thành phần trong dầu là Zingiberol, zingiberene, nonanal, borneol, chavicol, citral, methyheptenone. Tính cay ấm. Có tác dụng tăng cường tuần hoàn huyết dịch, kích thích tiết dịch vị, hưng phấn ruột, xúc tiến tiêu hóa, chữa cảm lạnh, buồn nôn, ho do lạnh. Mỗi lần dùng 4 – 10gr
Can khương
Là củ gừng phơi khô, tính cay ấm. Có tác dụng làm ấm dạ dày, thường dùng để trị tỳ vị hư hàn, trướng bụng đau bụng, thổ tả, ho do đàm lạnh. Mỗi lần dùng 2 – 6gr
Ổi khương, thán khương
Củ gừng đem lùi hoặc nướng thành than tồn tính (bên ngoài cháy đen nhưng bẻ ra thấy trong ruột còn màu nâu vàng và mùi gừng), Tính đắng ấm có tác dụng chỉ huyết (cầm máu) đường ruột. Mỗi lần dùng 2 -4gr
Khương bì
Là vỏ củ gừng phơi khô, kết hợp bốn loại vỏ khác như trần bì (vỏ quýt), phục linh bì (vỏ nấm phục linh), đại phúc bì (vỏ cau), ngũ gia bì (vỏ cây chân chim) phối thành thang ngũ bì ẩm nổi tiếng chuyên chữa phù thũng có thể dùng được cho cả phụ nữ có thai bị sưng hai chân.
6.2 Theo y học hiện đại
Gừng ( Zingiber officinale Roscoe) là một loại gia vị phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Nó rất giàu các thành phần hóa học khác nhau, bao gồm các hợp chất phenolic, tecpen, polysaccharid, lipid, axit hữu cơ và sợi thô. Những lợi ích sức khỏe của gừng chủ yếu là do các hợp chất phenolic của nó, chẳng hạn như gingerols và shogaols. Các nghiên cứu tích lũy đã chứng minh rằng gừng có nhiều hoạt tính sinh học, bao gồm chống oxy hóa, chống viêm, kháng khuẩn, chống ung thư, bảo vệ thần kinh, bảo vệ tim mạch, bảo vệ đường hô hấp, chống vi khuẩn, chống đái tháo đường, chống buồn nôn và các hoạt động chống nôn.